Từ năm 2007 trở về đây, EVN dưới thời ông chủ tịch Đào Văn Hưng luôn gây nóng bàn tán như các vụ việc, ý tưởng và cả hành động. Có cái vui, cái buồn nhưng tất cả đều làm nên những tiếng tăm đáng nhớ.
Thủy điện Sơn La hoàn tất vượt tiến độ
Với những bà của ngành điện và dân chúng, có lẽ, ấn tượng tuyệt vời nhất về EVN thời vị chủ tịch Đào Văn Hưng là sự thành công của dự án các nhà máy Thủy điện Sơn La.
Đây là mái nhà trọng điểm quốc gia, cơ cấu thủy điện nhiều nhất từ xưa tới bây giờ của lãnh thổ với công suất 2.400MW, sản lượng điện 10,2 tỷ kWh/năm. So với thủy điện Hòa Bình thì thủy điện Sơn La có công suất của máy thiết kế tốt nhất 500MW. Cho đến nay, cơ cấu vẫn trong giai đoạn hoàn thiện, nhưng trước tiên là 4/6 tổ máy đã rơi vào tình trạng vận hàng, năm 2011 Thủy điện Sơn La đã phát lên lưới điện quốc gia được 5,2 tỷ kWh.
Ngày 19/12/2011, tổ máy số 4 Nhà máy sản xuất Thủy điện Sơn La đã hòa khẳng định được vào hệ thống điện lưới quốc gia. Dự kiến tổ máy số 5 sẽ phát điện vào cuối tháng 4/2012. Tổ máy số 6 sẽ hoàn tất vào tháng 8/2012.
Theo kế hoạch để ban đầu, cơ cấu sẽ hoàn toàn xong tới năm 2015 nhưng hiện, EVN khởi động phấn đấu về đích sớm 3 năm, kết thúc trong năm nay này. Nếu vậy, dự án có thể tiết kiệm tới 1,5 tỷ USD.
Sau Thủy điện Hòa Bình (từng là ngôi nhà số 1 Đông Nam Á), thủy điện Sơn La sẽ hoàn thành trên theo bậc thang cắt lũ sông Đà, cung cấp phát triển cuộc sống xã hội, hàng loạt chiếu sáng nền văn hóa cho khu vực Tây Bắc vốn biết bao khó khăn.
Hơn thế, sau Sơn La, thủy điện Lai Châu cũng đã được đã và đang để kết thúc các theo từng định mức thủy điện trên sông Đà. Thêm một căn nhà mới được khởi công với khí thế và tiến độ của Sơn La hẳn sẽ bán và lắp đặt nhiều kỳ vọng.
Trả lại Chính phủ 13 trương trình nhiệt điện
Năm 2008, EVN có văn bản xin “trả” lại Chính phủ tới 13 trương trình nhiệt điện than do không thu xếp được vốn. Tại khoảng thời điểm này, EVN vẫn là Tập đoàn lợi thế về nguồn điện.
Điều nhiều lắm là, với tổng công suất của 13 dự án lớn lên tới 13.800MW, số các dự án lớn nhiệt điện này chiếm hơn 1/3 số dự án lớn điện mà EVN phải đảm nhiệm trong Quy hoạch 6. Đây cùng là các dự án lớn trọng điểm cần đưa vào chạy tốt nhất trong giai đoạn 2006-2015 của Quy hoạch điện 6.
Lúc này, EVN là người sẽ thực hiện 40 dự án lớn với kinh doanh vốn tới 43.000 tỷ đồng nhưng công ty này chỉ thu xếp được 36.000 tỷ đồng. Một nguyên nhân chuẩn mực khác tại vì giá điện thấp, biến động cao, EVN rơi vào tình trạng trong tình cảnh không vay nổi vốn, nhiều ngành ngân hàng quay lưng từ chối cho EVN vay tiền.
Trong khi đó, suất đầu tư bình quân của nhiệt điện than luôn thuộc diện cao, dao động từ 1,2- 1,4 tỷ USD/1000MW, tổng vốn kinh doanh của số các dự án này sẽ là con số kỷ lục vào khoảng 300 nghìn tỷ đồng. Để cấp sức mạnh than cho 13 trương trình này, cũng là 1 bài toán nan giải vì thường phải nhập than xung quanh và thân thiết cho cả đời dự án.
Điều đáng lưu ý là ngay sau đó, Tập đoàn Dầu khí nhảy vào xin triển khai 13 cơ cấu này. Nhưng sau đó, Chính phủ đã phân bổ các trương trình này “đồng đều” hơn, chỉ giao PVN như thế nào dự án, còn chính là Tập đoàn Than và kêu gọi mua bán của tới từ Isarael và EVN vẫn phải đảm nhiệm 2 công trình trong những 13 cơ cấu trên.
Siêu “công ty” mua bán điện
Với ý tưởng cầu nối với 7 Tập đoàn, Tổng cửa hàng Nhà nước hoàn thiện nhất Việt Nam, năm 2007, EVN đã trình đề án thành lập Nhà máy Cổ phần buôn bán điện.
Theo kế hoạch này, Nhà máy sản xuất cổ phần buôn bán điện đã có vốn điều lệ lên tới 1.000 tỉ đồng với 100 triệu cổ phần, mệnh giá mỗi số cổ phần 10.000 đồng.
Trong đó, 7 nền công nghiệp góp 49% vốn điều lệ gồm Tập đoàn Dầu khí, Doanh nghiệp than – khoáng sản Việt Nam, Tổng địa chỉ Sông Đà, Tập đoàn Bưu chính viễn thông Việt Nam, Tổng địa chỉ lắp máy Việt Nam, Tổng địa điểm xi măng Việt Nam và Tổng địa chỉ thép Việt Nam. Tập đoàn điện lực ViệtNam sẽ nắm giữ 51% vốn điều lệ.
Đáng chú ý là, trong 51% số cổ phần này, sẽ bao gồm vốn góp của những các nhà máy phát điện, công ty phân phối như Công ty sản xuất Điện lực 1, Điện lực 2, Điện lực 3, Nhà máy sản xuất Cổ phần Thủy điện Vĩnh Sơn- Sông Hinh, Công ty sản xuất Cổ phần Nhiệt điện Phả Lại và Nhà máy sản xuất Cổ phần Nhiệt điện Bà Rịa.
EVN đã dự kiến doanh thu bán hàng ở mức 5%-10% vốn điều lệ, giống như vậy 50-100 tỉ đồng/năm Đây cũng chính là giai đoạn, EVN vẫn có sẵn lãi và nếu tính từ khi năm 1995 đến 2007, EVN lãi 1.000-2.500 tỉ đồng/năm.
Ngay lập tức, dư luận phản ứng. Mô hình này sẽ biến Công ty kinh doanh điện trở nên siêu tổng cửa hàng duy nhất một lĩnh vực tạo sự hấp dẫn hơn nhất của ngành điện, đó là phân phối bán buôn điện. Xung đột lợi ích rất có thể xảy ra, khi giá điện sẽ bị thao túng bởi chính các cổ đông đứng nhiều vai, vừa đó là nhà phát điện, vừa lại là nhà chính thức được báo giá điện. Các chuyên gia kinh tế và một số tổ chức thế giới cũng khuyến cáo mô hình này sẽ hạn chế rất nhiều doanh nghiệp điện khác được bày bán vấn đề điện trong tương lai.
Rốt cục, đề án này cũng phá sản. Công ty buôn bán điện sẽ phải thuộc Nhà nước và hiện, đang có thể trực thuộc EVN.
Tranh cãi PVN – EVN về điện khí
Năm 2009, trước mối nguy bị thiếu điện do thiếu khí, EVN đã “tố” lên Bộ Công Thương về chuyện bị Công ty dầu khí (PVN) cấp phát thiếu khí và “cảnh báo” sẽ bị thiếu hơn 1 tỷ kWh. Chính việc này quả đáng e ngại vì nhiệt điện khí được khoảng 40% tổng sản lượng điện hàng năm và thiếu 1 tỷ kWh vào mùa lạnh sẽ tác động lớn tới đang cung cấp điện.
Tuy nhiên, ngay sau đó, PVN cũng tố ngược rằng, nguyên nhân tại vì EVN không chịu bao tiêu tràn ngập cả năm cho sản lượng khí cho cả năm, do nguồn khí mà PVN khai thác được còn phải đàm phán, thỏa thuận với nhà khai thác khí nước ngoài. Mặc dù PVN cố gắng phát công suất cao nhất có thể nhưng chính EVN cũng giảm sản lượng mua điện của PVN.
Câu chuyện này còn tái diễn hai lần trong cả vấn đề sản lượng huy động điện khí của PVN. Đầu năm 2011, EVN lại giảm việc huy động mua điện khí của PVN tới 50% khả năng để ưu tiên mua nguồn thủy điện ở các nhiều nhà máy trực thuộc mình.
Sau đó, cuối năm, PVN cũng kêu không thể an tâm đủ khí cho EVN trong năm nay vì đã trót ký hợp đồng dài hạn để các hộ người dân khác.
Các cuộc tranh cãi này đều chỉ dừng lại khi Bộ Công Thương nhảy phải vào cuộc can thiệp, làm trọng tài. Kết quả thường thấy là EVN và PVN đều nhận lệnh phải lo đủ khí, đủ điện cho quốc gia.
“Chúa chổm” ngàn tỷ
Cho đến nay, chưa có số liệu thống kê chính thức và đầy đủ về khoản nợ của EVN đối với các Công ty khác trong nước. Theo đưa tin từ PVN, năm 2011, EVN đã nợ Tập đoàn này tới 14.000 tỷ đồng, bao gồm cả 2.000 tỷ đồng tiền lãi phát sinh. PVN đã liên tiếp gửi trát đòi nợ rồi nhờ cả Bộ Công Thương “can thiệp” mà đói ăn thua.
Cũng do chông gai tài chính, EVN cũng nợ Công ty Than Khoáng sản tiến tới 2000 tỷ đồng tiền điện và than và nợ cả tiền mua dầu của Tổng địa điểm xăng dầu Việt Nam. EVN cũng chây ỳ khoản nợ 40 triệu USD tiền mua điện của nhiều nhà máy điện Hiệp Phước trong đầu năm 2011.
Trước dư luận, EVN hoặc là Bộ Công Thương đã đưa tin không có thể trả nợ nếu như, tăng ít được giá điện?!
Theo Kiểm toán Nhà nước đưa tin trước đó, nợ phải trả đến 31.12.2010 của EVN là 239.761 tỉ đồng (nợ ngắn hạn là 65.493 tỉ đồng, chiếm 27,31%; nợ trong dài hạn là 174.268 tỉ đồng, chiếm 72,69%). Tỉ lệ nợ phải trả/tổng một lượng vốn là 79,3%; tỉ lệ nợ phải trả/nguồn vốn chủ sở hữu là 4,22 lần. EVN đã không bảo toàn được vốn chủ sở hữu.
Tăng giá và quyền tự định giá
Thời gian qua, EVN bước vào thay đổi triển khai mạnh mẽ lộ trình khía cạnh hóa giá điện. Theo đó, từ năm 2007, giá điện cứ… liên tiếp tăng, mức tăng ngày càng lớn và tần suất tăng cũng một cách dày hơn.
Ví dụ, năm 2007, giá bán lẻ điện trung bình tăng là 842 đồng/KWh hơn hẳn 2006, áp dụng từ 1/1. Qua 1 năm rưỡi, ngày 1/7/2008, giá cửa hàng bán lẻ điện tăng tiếp lên 890 đồng/KWh. Sau đó, thường xuyên ngày 1/3 của 3 năm 2009-2010-2011, giá điện phân phối tới tận tay người dùng tiếp tục tăng 948 đồng/KWh, 1.058 đồng/KWh và 1.242 đồng/KWh. Và riêng năm 2011, khi đa số năm thì giá điện lại tăng tiếp 5%, lên mức 1304 đồng/kWh bình quân.
Năm 2011, EVN đã được quyền tự định giá theo cơ chế biến đổi thông số đầu vào. Chỉ cần giá thành tăng trong 5%, EVN hoàn toàn có thể tự tăng giá trong phạm vi 5% mà chưa được xin phép Thủ tướng. Chưa kể, thời gian tối đã tăng giá là 3 tháng, nghĩa là mỗi năm, EVN rất có thể tăng tới 4 lần với mức tăng tổng là 20%/năm.
Nếu tăng quá 5%, EVN mới phải cần tới sự thẩm định của Bộ Công Thương, Tài chính và Thủ tướng phê duyệt. Nói cách khác, quy định này, EVN có quyền cao nhất và xét một các khách quan, EVN sẽ không dại gì xin tăng quá 5% để phải chờ đợi “thủ tục hành chính” .
Trong bối cảnh tụt xuống nặng nề, EVN có thể quyền phân bổ dịch vụ lỗ trong kinh doanh điện vào chính giá bán lẻ điện. Sự cân nhắc này đã cho EVN nghiêm nhiên sẽ được tăng giá điện gấp hai lần nữa trong tương lai, khi mà Dòng sản phẩm lỗ buôn bán điện hàng chục nghìn tỷ đồng còn được xác nhận.
Theo Dân trí