Việc xây dựng kịch bản kinh tế năm 2012 của Việt Nam dựa vào mấy căn cứ sau: (1) triển vọng kinh tế thế giới trong năm tới và mức độ tác động đến Việt Nam; (2) Thực trạng xuất phát của nền kinh tế Việt Nam khi bước vào năm 2012; (3) Định vị năm 2012 trong quan hệ với các nhiệm vụ phải giải quyết trong trung hạn.
Về triển vọng kinh tế thế giới năm 2012
Các dự báo đều thống nhất nhận định kinh tế thế giới năm 2012 sẽ u ám, thậm chí tồi tệ hơn rất nhiều so với năm 2011. Hai điểm nhấn quan trọng nhất là sự sụt giảm tốc độ tăng trưởng của kinh tế toàn cầu, nhất là của các trung tâm tăng trưởng (Mỹ, EU, Nhật, Trung Quốc) và sự bất ổn gia tăng, có khả năng xảy ra cuộc chiến tranh tiền tệ và chiến tranh thương mại (thậm chí nguy cơ suy thoái kép).
Trong năm 2012, do độ mở cửa cao, nền kinh tế Việt Nam chắc chắn sẽ chịu tác động tiêu cực từ xu hướng nói trên của kinh tế thế giới. Các năm trước, trong một bối cảnh quốc tế như nhau, các chỉ số kinh tế cơ bản của Việt Nam (tăng trưởng, lạm phát, giá trị đồng tiền, nợ…) đã kém hơn so với nhiều nền kinh tế khác. Khả năng này có thể lại diễn ra trong năm 2012, thậm chí ở cấp độ gay gắt hơn vì nền kinh tế đang khó khăn, thực lực lại bị yếu đi hơn nhiều so với những năm trước.
Tuy có thể có một số tác động “tích cực” nào đó (giá cả hàng hóa, năng lượng, nguyên liệu có thể giảm, giúp giảm CPI, hỗ trợ tăng trưởng), song tình hình kinh tế thế giới năm 2012 nhìn chung sẽ tác động bất lợi nhiều hơn đến sự tăng trưởng và ổn định của nền kinh tế nước ta.
Thực lực nền kinh tế Việt Nam khi bước vào năm 2012
Xu hướng suy giảm tốc độ tăng trưởng, tình trạng lạm phát cao, thâm hụt thương mại và thâm hụt ngân sách nặng nề kéo dài đã nhiều năm và vẫn chưa có dấu hiệu dừng lại. Ở đây điểm đáng lưu ý là có thể xuất hiện tình huống vòng xoáy trong phát triển kinh tế, tức là đình trệ đi liền với lạm phát cao, một tình huống rất nguy hiểm.
Một số biểu hiện cần được lưu ý hiện nay là:
– Sức khỏe doanh nghiệp bị hao hụt nặng. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, chín tháng đầu năm nay có gần 50.000 doanh nghiệp (9% tổng số) đóng cửa. Tuy mức độ chính xác của số liệu còn phải bàn (có một số bằng chứng gián tiếp nhưng đáng tin cậy cho rằng số doanh nghiệp đóng cửa có thể lên tới 30-35%, tức là gấp 3-4 lần con số công bố), song con số 9% cũng tạm đủ để nói lên tính nghiêm trọng của tình hình.
– Đời sống của dân cư, nhất là nhóm người thu nhập thấp ngày càng khó khăn do lạm phát cao kéo dài và việc làm bị thu hẹp. Hệ quả là sức mua xã hội giảm và lòng tin bị xói mòn.
– Dư địa chính sách và năng lực tài chính nhà nước để tăng tốc độ tăng trưởng (tăng đầu tư Chính phủ) và kiềm chế lạm phát bị thu hẹp mạnh mẽ. Các giải pháp để xử lý vấn đề trong ngắn hạn chủ yếu vẫn là các giải pháp hành chính.
Tình thế phát triển nêu trên cho phép nhận định: cơ sở cho tăng trưởng GDP năm 2012 nhìn chung là yếu hơn so với các năm trước và dư địa chính sách để chống lạm phát và ổn định vĩ mô bị thu hẹp đáng kể.
Định vị năm 2012 trong kế hoạch 2011-2015 và trong chiến lược 2011-2020: lựa chọn mục tiêu ưu tiên
Năm 2012 có nhiệm vụ khôi phục ổn định vĩ mô, kiềm chế lạm phát và phục hồi tăng trưởng. Về nguyên tắc, đó là những nhiệm vụ “thông thường” của một nền kinh tế khi lâm vào tình trạng khó khăn. Nhưng năm 2012 là năm đặc biệt, theo nghĩa đây là năm nền kinh tế lâm vào tình thế khó khăn nghiêm trọng, cũng là năm nền kinh tế phải tạo bước ngoặt để xoay chuyển tình hình – ổn định kinh tế vững chắc để khôi phục lòng tin, hạ thấp lạm phát đến mức giúp các doanh nghiệp không lún sâu hơn vào tình thế bi kịch (số doanh nghiệp bị đóng cửa và phá sản tiếp tục tăng). Ngoài ra, năm 2012 còn một điểm nhấn đặc biệt khác: tiến hành tái cấu trúc nền kinh tế với các hành động thực tế mang tính chiến lược để thay đổi mô hình tăng trưởng.
Để thực hiện các nhiệm vụ – mục tiêu đó, ngay từ bây giờ, cần quán triệt tư duy “đánh đổi” khi cân nhắc mức độ ưu tiên giữa mục tiêu ổn định – cải cách (tái cấu trúc) và mục tiêu tăng trưởng trên quan điểm lợi ích phát triển dài hạn (lợi ích chiến lược).
Về cấp độ ưu tiên, thực tiễn nhiều năm cho thấy để đưa nền kinh tế thoát ra khỏi tình trạng khó khăn hiện nay, không thể không ưu tiên cho nhiệm vụ tái cơ cấu. Nhưng để quá trình tái cơ cấu có thể diễn ra, cần ổn định nền kinh tế để tái lập lòng tin thị trường, lòng tin xã hội. Đây phải là hai mục tiêu – nhiệm vụ ưu tiên cao nhất. Như vậy, tăng trưởng đương nhiên không phải là mục tiêu ưu tiên và phải kiên định với lập trường này.
Nhấn mạnh điều này vì thực tế mấy năm gần đây diễn ra một tình trạng nghịch lý: mục tiêu ưu tiên (kiềm chế lạm phát, ổn định vĩ mô, tái cơ cấu) thì thường khó (hay không) đạt còn mục tiêu không ưu tiên (tốc độ tăng trưởng GDP) thì đạt được tương đối dễ dàng. Điều này chứng tỏ mục tiêu tăng trưởng được thực hiện theo một cơ chế mang tính tự động, bản năng, bất chấp các nỗ lực chính sách.
Theo logic đó, để xoay chuyển thực tiễn thì điều đầu tiên là phải “đổi mới tư duy”, phải biết đặt mục tiêu tốc độ tăng trưởng ở mức ít tham vọng nhất, ít cần được quan tâm nhất, tức là với sự tự giác cao nhất. Để làm được điều này, trong năm 2012, cần gạt bỏ triệt để căn bệnh “nghiện” thành tích tốc độ tăng trưởng. Chính phủ và cả hệ thống chính trị cần coi trọng hơn hệ thống đánh giá năng lực và thưởng phạt căn cứ vào thành tích chống lạm phát và khôi phục lòng tin.
Phân tích kịch bản kinh tế năm 2012
Hiện nay, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đưa ra hai kịch bản tăng trưởng (xem bảng, các con số trong ngoặc thuộc kịch bản 2).
Tuy đã “nén” các chỉ số, song các mục tiêu đề xuất trong cả hai kịch bản, kể cả trong kịch bản “ít lạc quan” cũng đều lạc quan hơn so với kết quả thực tế đạt được năm 2011. Đáng lưu ý là sự cải thiện mạnh mẽ một số chỉ tiêu chất lượng – đầu tư ít hơn nhưng tốc độ tăng trưởng cao hơn, bội chi ngân sách ít hơn.
Trước hết, có thể thấy đây là các con số mục tiêu và cơ bản giống như các năm khác. Với kịch bản này, dường như việc nhận diện tình thế và nhiệm vụ phải làm của năm 2012 không có gì khác biệt, chưa nói là đặc biệt.
Thử đặt một vài câu hỏi cho kịch bản mục tiêu (so năm 2012 với 2011):
1. Tổng đầu tư xã hội giảm mạnh, từ 39,8% GDP xuống 33,5-34% GDP, nhưng tốc độ tăng GDP cao hơn -> như vậy là phải trông đợi vào tăng hiệu quả đầu tư. Nhưng phép màu tăng hiệu quả là ở đâu?
2. Xuất khẩu tăng trưởng chậm hơn nhiều (12% so 31%), nhưng thâm hụt thương mại lại ngang bằng năm 2011 -> có nghĩa là nhập khẩu tăng trưởng chậm hơn nhiều -> tức là “đầu vào” nhập khẩu tăng chậm. Điều đó sẽ tác động đến tăng trưởng GDP theo chiều hướng tiêu cực?
3. Lạm phát thấp hơn nhưng tăng trưởng GDP cao hơn. Chính sách tiền tệ và tài khóa tiếp tục thắt chặt, việc tiếp cận vốn của doanh nghiệp như thế nào?
4. Việc giảm lạm phát xuống dưới 10% đã đủ bảo đảm tái lập ổn định vĩ mô và giúp chặn xu hướng đóng cửa và phá sản của các doanh nghiệp chưa?
5. Mức giảm bội chi ngân sách thấp (chỉ giảm 0,5% GDP). Giả dụ mức thu ngân sách năm 2012 giữ nguyên mức thu của năm năm gần đây (28,2% GDP) thì mức chi tiêu ngân sách năm 2012 vẫn đạt 33% GDP. Đó là chưa kể đến khả năng năm 2012 ngân sách được chi tiêu phần ngân sách vượt thu của năm 2011 (90.000 tỉ đồng). Các con số này cho thấy mức chi ngân sách ở Việt Nam là quá lớn trong những năm vừa qua (so với mức thông thường của đa số quốc gia trên thế giới).
Với các kịch bản nêu trên, có thể đặt câu hỏi phải chăng xu hướng suy thoái rõ rệt của kinh tế thế giới không ảnh hưởng gì đến tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, rằng tình trạng phá sản và đóng cửa của một số lớn doanh nghiệp trong năm 2011 không ảnh hưởng tiêu cực đến tốc độ tăng trưởng GDP?
Đề xuất kịch bản hành động
Trong tình huống cấp bách thì phải có liệu pháp đặc biệt, cần một kịch bản hành động mạnh, rõ ràng, theo đúng tinh thần tái cơ cấu là nhiệm vụ chính của năm 2012. Giải pháp tái cơ cấu phải được coi là trục giải pháp chính của việc ổn định và khôi phục tăng trưởng, các chính sách tiền tệ là giải pháp hỗ trợ, tập trung vào các chính sách tài khóa và cải cách DNNN.
Cách tiếp cận giải pháp là: thực hiện các giải pháp mạnh để xoay chuyển tình hình và chấp nhận trả giá để hạ nhanh lạm phát, tái lập ổn định vĩ mô vững chắc, khôi phục lòng tin và phục hồi các cơ sở tăng trưởng.
Cách tiếp cận mới về các mục tiêu phát triển năm 2012
Mục tiêu ưu tiên là ổn định và khôi phục lòng tin, xác lập mô hình tăng trưởng mới. Bên cạnh đó, các mục tiêu bổ sung là giảm lạm phát xuống 6-7%, không quá chú trọng tốc độ tăng trưởng GDP, có thể chỉ đặt mục tiêu tăng trưởng GDP 3-4%, cùng lắm là 5%.
Về giải pháp, cần kiên quyết giảm thu ngân sách xuống 24-25% GDP, trên cơ sở đó, thực sự giảm chi ngân sách, giảm đầu tư công, kéo mức thâm hụt ngân sách xuống 4% GDP.
Việc thực hiện các mục tiêu này vừa cho xã hội thấy quyết tâm và hành động tái cơ cấu của Chính phủ, tạo lòng tin cho nhân dân, vừa là cách hỗ trợ thiết thực và tích cực khu vực tư nhân phục hồi hoạt động tăng trưởng.
Đề xuất chương trình hành động
Trước hết, phải bắt tay ngay vào tái cơ cấu thực sự ba lĩnh vực ưu tiên mà Hội nghị Trung ương 3 đã khẳng định (đầu tư công, hệ thống ngân hàng thương mại, khu vực doanh nghiệp nhà nước).
Ngoài ra, còn phải làm một số việc:
– Cải cách hệ thống lương trong khu vực nhà nước, coi đây là phương cách quyết định để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Đây là cách để khôi phục lòng tin của dân.
– Cải cách hệ thống ngân sách theo nguyên lý kinh tế thị trường.
– Đẩy mạnh việc thay đổi Luật Đất đai, không để tình trạng Luật Đất đai luôn chạy theo thực tế và cản trở quá trình đổi mới theo hướng thị trường.
– Tập trung ưu tiên dành vốn nhà nước để xây dựng bốn khu kinh tế tự do, với thể chế hiện đại, đột phá mở đường cho bốn vùng kinh tế trọng điểm (Phú Quốc, Vũng Tàu, Đà Nẵng – Chân Mây, Hải Phòng).
Đó là những yếu tố chính của kịch bản hành động nhằm đạt được kịch bản tăng trưởng với những mục tiêu khiêm tốn hơn về tăng trưởng GDP, song khốc liệt hơn gấp bội về chống lạm phát, ổn định vĩ mô và tái cơ cấu.
(*) Viện Kinh tế Việt Nam
Nguồn: Thời báo Kinh tế Sài Gòn
Từ khoá liên quan:
- tình hình kinh tế việt nam năm 2011
- tình hình kinh tế năm 2012
- tình hình kinh tế việt nam 2011
- tinh hinh kinh te viet nam
- tình hình kinh tế việt nam năm 2012